Nam Hải dị nhân - Nguyễn Trãi

(0)
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai tiên sinh, cha ông ấy là Tự khanh công, nguyên người ở huyện Phượng Nhỡn. Ông cụ ấy hay địa lý, mới đem tiên phần sang táng ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, rồi làm nhà và nhập tịch làng ấy.
Cẩm nang kiến thức phong thủy trực tuyến

Đời con là Nguyễn Trãi, đỗ tiến sĩ về thời nhà Hồ, làm đến Ngự sử đài chánh chưởng. Đến lúc nhà Hồ mất, ông ấy về ẩn ở núi Côn Sơn, có bụng muốn ra dẹp loạn cứu đời.

Bấy giờ có người ở làng Hoắc Sa tỉnh Sơn Tây tên là Trần Nguyên Hãn, đi bán dầu kiếm ăn. Một bữa trời tối, đi qua làng Chèm, mới vào đền Chèm nằm ngủ. Nửa đêm nghe có tiếng ông thần làng khác vào rủ ông Chèm lên chầu trời. Ông Chèm nói có quốc công ngủ trọ không đi được. Đến gà gáy ông thần kia trở về. Ông Chèm hỏi trên trời có việc gì, thì ông kia nói rằng:

- Thượng đế thấy nước Nam chưa có chúa, có cho ông Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) làm chúa, mà ông Nguyễn Trãi thì làm bày tôi.

Trần Nguyên Hãn nghe rõ câu ấy, chịu khó hỏi dò tìm đến nhà ông Nguyễn Trãi, kể lại chuyện ấy. Nguyễn Trãi không tin, lại về đền Chèm cầu mộng, thì thấy thần báo mộng rằng:

- Việc thiên đình bí mật lắm, không dám nói lộ ra ngoài. Có chị Tiên Dong biết tường việc ấy, vả lại là đàn bà, thì trời không trách đến, ông nên đem vàng đến nơi ấy mà hỏi.

Ông Nguyễn Trãi nghe lời ấy, đến cầu mộng đền bà Tiên Dong, thì mơ thấy bà ấy gọi bảo rằng:

- Nguyễn Trãi! Lê Lợi làm vua, mà anh thì làm bày tôi, anh chưa biết chuyện ấy à?

Ông ấy hỏi cặn kẽ lại thì mới biết ông Lê Lợi là người làng Lam Sơn tỉnh Thanh Hóa. Mới cùng với Trần Nguyên Hãn vào Lam Sơn, hỏi thăm đến nhà ông Lê Lợi. Bấy giờ Thái Tổ còn hàn vi, khi hai ông kia đến, thì ngài đang mặc cái áo cánh cộc, vai vác bừa, tay dắt bò ở ngoài đồng về. Hai ông xin vào hầu, Thái Tổ mời nghỉ lại trong nhà. Xảy gặp hôm ấy nhà có giỗ, hai ông kia xuống bếp thổi nấu, trông trộm lên nhà trên, thì thấy ngài cầm dao thái thịt, đang vừa thái vừa ăn.

Hai ông kia bàn riêng với nhau rằng:

- Bà Tiên Dong nói lừa chúng ta đây, có lẽ đâu khí tượng thiên tử mà lại thế kia bao giờ?

Liền cáo từ ra về, lại đến cầu mộng đền bà Tiên Dong, thì thấy báo mộng rằng:

- Lê Lợi làm vua, trời đã nhất định như thế rồi, chỉ vì chưa có thiên tinh giáng đấy thôi.

Hai ông lần sau lại đến thăm Thái Tổ, thì bấy giờ ngài đã được quyển thiên thư. Khi ấy đang đêm đóng cửa xem sách. Nguyễn Trãi đứng ngoài cửa dòm vào, rồi đẩy cửa, hai ông cùng vào. Thái Tổ cắp thanh gươm đi ra, hai ông cùng lạy phục xuống đất và nói rằng:

- Chúng tôi xa xôi lặn ngòi noi nước đến đây, là vì thấy ngài làm được chúa thiên hạ, xin cho chúng tôi được theo hầu.

Thái Tổ cười, lưu hai người ở lại, mưu việc khởi binh. Ông Nguyễn Trãi lấy mỡ viết vào lá cây tám chữ: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”. Về sau sâu cắn những lá ấy rụng xuống, người ta thấy vậy cho là sự trời định, đồn rực cả lên, bởi thế nhân dân tranh nhau theo về với ông ấy, quân thế mỗi ngày một thịnh.

(Hình: Nguyễn Trãi)

Đến năm Mậu tuất, mới bắt đầu ra đánh nhau với quân nhà Minh, ông Nguyễn Trãi bàn mưu lập kế giúp vua Thái Tổ đánh hơn 20 trận. Năm Bính ngọ, quân ta thắng trận, tiến sát đến Đông Đô, tướng nhà Minh là Vương Thông giữ vững trong thành. Nhà Minh lại sai An viễn hầu là Liễu Thăng và Kiềm quốc công là Mộc Thạnh chia quân làm hai đường sang cứu Đông Đô. Thái Tổ đón đánh ở núi Mã An, chém được Liễu Thăng, và bắt sống được bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ hơn 300 người, Mộc Thạnh phải trốn về nước, Vương Thông mở cửa thành ra hàng.

Tự bấy giờ hai nước lại thông hiếu, nội là tờ bồi giao thiệp với Tàu, do tự một tay Nguyễn Trãi cả.

Vì có công được phong quốc tính, gọi là họ Lê, lại mà thăng lên làm Vinh lộc đại phu nhập nội hành khiển coi cả việc trong ba quân và được phong là Tế văn hầu.

Trần Nguyên Hãn thì được phong làm quốc công, đến khi mất, lại được phong làm thành hoàng, bây giờ còn đền thờ ở làng Hoắc Xa.

Nguyễn Trãi văn chương hùng dũng, có khí lực, phàm các bài như là văn “Bình Ngô đại cáo” cùng là văn bia “Lam kinh thần đạo” có chép vào bộ Thực lục là tự tay ông ấy soạn ra cả.

Tính ông ấy điềm đạm, không ham mê danh lợi, thường có chí muốn từ chức về nhà. Ông ấy có một trại riêng ở tỉnh Bắc, gọi là Tiêu Viên. Đến đời vua Thái Tôn, Nguyễn Trãi trí sĩ về ẩn ở trại ấy. Cuối đời Thiệu Bình, vua Thái Tôn nhân đi chơi qua tỉnh Bắc, vào chơi trại Tiêu Viên, Nguyễn Trãi đi vắng, có nàng hầu là Thị Lộ, ở nhà pha chè hầu vua, chiều hôm ấy vua mất, đình thần cho là Thị Lộ giết vua, bởi thế cả nhà ông Nguyễn Trãi phải tội tru di.

Khi trước đánh nhau ở núi Mã An, Nguyễn Trãi bắt được Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc. Hoàng Phúc giỏi nghề địa lý, khi ở nước Nam, bao nhiêu chỗ kiểu đất hay, đã biên kỳ lấy cả. Bấy giờ phải bắt, Nguyễn Trãi có ý khinh bỉ.

Hoàng Phúc cười bảo rằng:

- Mả tổ nhà tôi có Xá văn tinh, chẳng qua chỉ phải nạn trong năm ngày là cùng, không đến nỗi như ông có đất phải tru di tam tộc.

Bấy giờ cũng cho lời ấy nói xằng, về sau Hoàng Phúc quả nhiên được tha về, mà Nguyễn Trãi thì mắc nạn, mới biết lời trước là nghiệm.

Tục truyền khi ông Nguyễn Trãi chưa đỗ, dạy học trò ở làng Nhị Khê, thường có sai học trò dọn cỏ một cái gò ở ngoài đồng để làm trường dạy học. Đêm hôm trước, mơ thấy một người đàn bà vào kêu rằng: “Tôi mẹ yếu con thơ, xin ông khoan cho ba ngày để tôi đem con tôi đi chỗ khác, rồi ông sẽ sai dọn cỏ”. Sáng sớm, thức dậy ra đồng xem thì học trò đã dọn sạch rồi, và bắt được hai cái trứng rắn.

Nguyễn Trãi hỏi thì học trò nói rằng:

- Ban nãy chúng tôi thấy con rắn ở trong đám cỏ rậm, đánh nó đứt đuôi mà chạy mất, chỉ bắt được hai cái trứng ở đây. Nguyễn Trãi nghĩ con rắn hẳn là người đàn bà báo mộng hôm qua, phàn nàn không ngần nào, mới đem hai cái trứng về nhà nuôi cho nở. Đêm hôm ấy, đang ngồi xem sách, có con rắn trắng leo lên xà nhà rỏ máu trúng vào chữ đại (*) (代)trong trang sách, thấm xuống ba tờ giấy. Nguyễn Trãi biết là nó tất báo oán đến ba đời, đến khi hai cái trứng kia nở ra, thì một con dài, một con ngắn. Nguyễn Trãi sai đem thả xuống sông Tô Lịch ở cạnh làng.

(*)Đại nghĩa là đời (BT).

Khi Nguyễn Trãi đã hiển đạt, một bữa, ở trong triều về, đi qua hàng chiếu, trời đã tối sâm sẩm, gặp một đứa con gái đi bán chiếu, nhan sắc tuyệt trần, Trãi đọc lên bốn câu thơ để hỏi đùa.

Thơ rằng:

Ả ở đâu đi bán chiếu gon?

Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?

Xuân thu chừng độ bao nhiêu tuổi?

Đã có chồng chưa được mấy con?

Người con gái ấy cũng đọc lên một bài đáp lại.

Thơ rằng:

Tôi ở Tây hồ bán chiếu gon,

Nỗi chi ông hỏi hết hay còn?

Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ.

Chồng còn chưa có, có chi con!

Nguyễn Trãi thấy nói đối đáp ngay được, lấy làm khoái chí lắm. Hỏi tên thì nói tên là Thị Lộ, mới đem về cho làm nàng hầu.

Vua Thái Tôn nghe tin nàng ấy đẹp và hay chữ, sai làm nữ học sĩ, thường thường cho ra vào trong cung.

Khi vua vào chơi nhà ở Tiêu Viên, thì ông Nguyễn Trãi đi vắng, chỉ có Thị Lộ ở nhà. Nàng ấy pha nước dâng lên vua xơi, vua uống phải thì mất ngay. Nguyên Thị Lộ tức là con rắn hiện hình ra làm người để báo thù. Khi nó pha nước thì nó nhả cái nọc độc vào trong chén nước, cho nên vua trúng độc mà mất.

Các quan bắt con Thị Lộ vào tra hỏi, thì nó xưng là ông Nguyễn Trãi xui nó, đình thần mới chiểu luật bắt tội nhà ông ấy, mà bỏ con Thị Lộ vào cũi đem quăng ra sông Nhị Hà, thì nó lại hóa ra con rắn ở trong cũi chui ra đi mất.

Lúc nhà ông Nguyễn Trãi đang phải nạn, có người vợ lẽ đang có mang, chạy trốn xuống ở tỉnh Nam. Về sau sinh được người con trai đặt tên là Anh Võ. Ở đã lâu, chủ nhà mới biết là vợ lẽ ông Nguyễn Trãi.

Đến thời Quang Thuận, vua Thánh Tôn thương ông ấy mắc phải tội oan, ban chiếu giải oan, và phong tặng làm Thái sư Tuệ quốc công. Sai tìm dòng dõi nhà ông ấy, thì mới tìm thấy Anh Võ. Vua phong quan chức cho Anh Võ, để nối dõi nhà ông ấy. Đến sau Anh Võ sang sứ Tàu, đi qua hồ Động Đình, bỗng thấy con rắn ở dưới nước bò lên, rồi thì phong ba nổi lên ầm ầm. Anh Võ biết lại là con rắn trước báo oán, mới khấn rằng: “Xin cho trọn việc nước, rồi đến lúc trở về sẽ xin chịu tội”. Khấn vừa đoạn thì sóng gió lại yên. Đến lúc việc sứ xong trở về, quả nhiên lại nổi cơn sóng gió, đắm thuyền mà mất.

Vua Thái Tôn truy tặng cho làm Thái sư Sùng quốc công.

Trong năm Cảnh Hưng, triều đình duyệt lại các sắc phong của các ông khai quốc công thần. Khi duyệt đến sắc ông Nguyễn Trãi thì quan Thị lang là ông Lê Quí Đôn xé đạo sắc ấy ra nói rằng:

- Bọn loạn thần tắc tử, còn để cáo sắc làm gì nữa!

Nói vừa buông lời, bỗng nhiên ngã gục ngay xuống, rồi thấy hai tên lính bắt đi, đưa đến một chỗ đền đài, tường liễu chung quanh, có các cây cổ thụ to hàng mười ôm. Trong đền có vài chục chiếc ỷ. Ở mé hữu có một tấm sập, trên sập có một ông quan ngồi, đầu đội mũ, mình mặc áo bố tử. Lính hầu xúm xít chung quanh. Hai tên lính bắt ông Lê Quí Đôn quì ở dưới thềm, rồi ông quan ngồi trên sập thét lên rằng:

- Ta là Tế văn hầu đây, ngươi là sơ học tiểu sinh, sao dám bỉ báng người có công tiền triều, tội ngươi đáng chết!

Lê Quí Đôn ngồi nín lặng, không dám ngẩng mặt lên nhìn. Bên cạnh có người đội khăn lượt mặc áo xanh, kêu van thay cho Quí Đôn, ông quan lại nói rằng:

- Công danh sự nghiệp của ta, không thèm so sánh với ngươi, ngươi đừng tưởng ngươi đỗ Bảng nhỡn mà đã khinh người, cho về mà thử xem bài “Bình Ngô đại cáo” của ta, nếu ngươi làm hay hơn được bài ấy, thì xé sắc của ta cũng phải.

Lê Quí Đôn tỉnh dậy, kinh hãi lắm, lập tức viết lại sắc của ông Nguyễn Trãi. Vì thế sắc của công thần không ai phải tước cả.

ST Tam Nguyên Phong Thuỷ

  • Tổng thư ký Hiệp hội dịch học Thế giới phân hội Việt Nam

  • Viện phó thường trực Viện nghiên cứu & Phát triển Văn hóa Phương Đông

  • Giám đốc Công ty TNHH Kiến trúc Phong thủy Tam Nguyên.

Đặt Lịch Tư Vấn

Quý khách để lại thông tin, chúng tôi sẽ liên hệ sớm nhất trong vòng 24h
1900.2292
1900.2292 Facebook Page Facebook Messenger Zalo Chat Chat trực tiếp

Hỗ trợ